Skip to content

[T03.3] Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 2)

Written by

Linh Phamvu

Lời người dịch

Phần 1: Kí ức: Cá nhân, xã hội và văn hóa

Phần 3: Khung thời gian

Phần 4: Bản sắc

Phần 5: Thể chế và Vật chứa đựng


Phần 2. Văn hóa như một kí ức

Kí ức văn hóa như một dạng thể chế (institution). Chúng thuộc về bên ngoài (exteriorized), khách quan hóa (objectified) và được lưu trữ tách biệt thành những hình thức biểu tượng, thứ mà không giống như âm thanh của ngôn ngữ (sound of words) hay hình thức của hình dáng (sight of gestures), chúng ổn định và situation-transcendent: chúng có thể được chuyển đổi từ một tình huống này sang một tình huống khác và chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những đồ vật bên ngoài (external objects) như những vật chứa đựng kí ức (carrier of memory) vốn đã đóng một vai trò ở mức độ của kí ức cá nhân. Kí ức của chúng ta, thứ mà chúng ta sở hữu như những vật đi kèm với tâm trí con ngời, chỉ tồn tại trong những tương tác không ngừng không chỉ với kí ức con người khác mà còn với “the things”, những biểu tượng bên ngoài (outward symbol). Đối với những thứ như món bánh madeleine nổi tiếng của Marcel Proust hoặc những hiện vật, đồ vật, lễ kỉ niệm, bữa tiệc, kí tượng, biểu tượng hoặc cảnh quan, cụm từ “kí ức” không phải là một sự ẩn dụ (metaphor) mà là một sự hoán dụ (metonym) dựa trên vật liệu tương tác giữa một trí óc đang ghi nhớ (remembering mind) và một vật gợi nhớ (reminding object). Đồ vật không có kí ức của tự bản thân chúng nhưng chúng có thể nhắc nhở chúng ta, kích hoạt kí ức của chúng ta, bởi vì chúng chứa đựng kí ức mà chúng ta đã đặt vào trong đó, những đồ vật như những chiếc dĩa, những bữa tiệc, những nghi thức, hình ảnh, câu chuyện và những dòng chữ, cảnh quan và cả những “lieux de mémoire” (place of memory).

Ở mức độ văn hóa, trên khía cạnh nhóm và xã hội, vai trò của những biểu tượng bên ngoài (external symbol) trở nên thậm chí quan trọng hơn nhiều, bởi vì nhóm (group), nơi mà dĩ nhiên không “sở hữu” một kí ức để tự biến bản thân chúng thành những thứ nhắc nhở (reminders) như đài tưởng niệm, bảo tàng, thư viện, kho lưu trữ và những công trình lưu trữ kí ức khác (mnemonic institution). Đây chính là thứ mà chúng ta gọi là kí ức văn hóa (A. Assmann). Để có thể được tái hiện (reembodied) trong dòng chảy của thế hệ, kí ức văn hóa, không giống như kí ức giao tiếp, tồn tại trong cả những dạng thức tách rời (disembodied form) và đòi hỏi những hình thức của sự lưu trữ (preservation) và tái hiện (reembodiment).

Đặc tính cơ chế này (institutional character) không áp dụng cho thứ mà Halbwachs gọi là kí ức tập thể và thứ mà chúng ta đề xuất đổi tên thành kí ức giao tiếp. Kí ức giao tiếp thì không có tính cơ chế (non-institutional); nó không được hỗ trợ bởi bất kì hình thức nào của học, chuyển giao và diễn dịch; nó không được nuôi dưỡng bởi những chuyên gia và không được triệu tập hay kỉ niệm vào những dịp đặc biệt; nó không được nghi thức hóa và làm cố định bởi bất kì hình thức của sự tượng trưng hóa vật liệu (material symbolization); nó sống trong các tương tác và giao tiếp hàng ngày và, chính vì lý do này, nó chỉ có một sự giới hạn về độ sâu thời gian thông thường không kéo dài quá 80 năm- chu kì thời gian của 3 thế hệ tương tác (interacting generation). Tuy nhiên, vẫn có những cấu trúc, những “communicative genre”, truyền thống của giao tiếp và đề hóa (thematization) và trên hết, những nút thắt hiệu quả giúp kết nối gia đình, nhóm và các thế hệ với nhau.

Một sự thay đổi của những cấu trúc sẽ đem đến sự lãng quên; độ bền của những kí ức phụ thuộc vào độ bền của những liên kết và cấu trúc xã hội. Ở tác phẩm trước, Halbwachs có vẻ như không quan tâm đến những mối bận tâm xã hội (social interest) và những cấu trúc sức mạnh đóng vai trò chủ động trong việc định hình và cấu trúc kí ức cá nhân. Tuy nhiên trong tác phẩm cuối cùng của mình, ông đã thể hiện một sự ý thức sâu sắc về cơ chế và sức mạnh. La topographie légendaire des évangiles en terre sainte, được xuất bản vào năm 1941 trong giai đoạn xâm lược của Đức, đã đề cập đến sự chuyển đổi của Palestine thành một nơi chốn của kí ức của những người theo đạo Công giáo (Christian) bởi sự xây dựng của tất cả các thể loại công trình tưởng niệm. Quá trình này diễn ra sau khi đạo Công giáo được du nhập như là một quốc đạo bởi đế chế Roman. Trong tác phẩm này, Halbwachs đã vượt qua khỏi ranh giới mà ông đã tự vạch ra giữa kí ức và truyền thống và chứng tỏ rằng ở mức độ nào thì dạng kí ức chính thức này trở nên độc lập với giáo lý thần học (theological dogma) và được cấu thành bởi cấu trúc sức mạnh của nhà thờ.

(Còn tiếp)


Reference:

Assmann, A. (1999). Erinnerungsräume: Formen und Wandlungen des kulturellen Gedächtnisses [Commemorative spaces: Forms of and changes of cultural memory]. Munich: C. H. Beck.
Assmann, A. (2006). Memory, individual and collective. In R. E. Goodin & C. Tilly (Eds.), The Oxford handbook of contextual political analysis (pp. 210–224). Oxford, UK: Oxford, University Press.
Assmann, A., & Assmann, J. (1989). Schrift, Tradition, Kultur [Writing, tradition, culture]. In P. Goetsch,W. Raible, & H.-R. Roemer (Series Eds.) &W. Raible (Vol. Ed.), Scriptoralia: Vol.6. Zwischen Festtag und Alltag (pp. 25–49). Tübingen: Narr.
Assmann, J. (1988). Kollektives Gedächtnis und kulturelle Identität [Collective memory and cultural identity]. In J. Assmann&T. Hölscher (Eds.), Kultur und Gedächtnis (pp. 9–19). Frankfurtam Main: Suhrkamp.
Assmann, J. (1992). Das kulturelle Gedächtnis. Schrift, Erinnerung und politische Identität in frühen Hochkulturen [Cultural memory: Writing, remembrance, and political identity in ancient civilizations]. Munich: C. H. Beck.
Assmann, J. (2001). Five steps of canonization: Tradition, scripture and the origin of the Hebrew Bible. In A. Neuwirth & A. Plitsch (Eds.), Crisis and memory in Islamic societies (pp. 75–93).Würzburg: Ergon.
Assmann, J. (2006a). Religion and cultural memory: Ten studies. Stanford, CA: Stanford University Press.
Assmann, J. (2006b). Thomas Mann und Ägypten. Mythos und Monotheismus in den Josephsromanen [Thomas Mann and Egypt: Mythos and monotheism in the Joseph novels]. Munich: C. H. Beck.
Borgeaud, P. (1988). Pour une approche anthropologique de la mémoire religieuse [Toward an anthropological approach to religious memory]. In P. Borgeaud (Ed.), La mémoire des religions (pp. 7–20). Geneva: Labor et Fides.
Curtius, E. R. (1948). Europäische Literatur und lateinisches Mittelalter [European literature and Latin middle ages]. Bern: Francke.
Flavius, J. (1738). Contra Apionem [Against Apion] (W. Warburton, Trans.). London: F. Gyles.
Flavius, J. (1993). Kleinere Schriften [Short writings] (H. Clementz, Trans. & Ed.). Wiesbaden: Fournier. (Original translation published 1901)
Fowden, G. (1993). The Egyptian Hermes: A historical approach to the late pagan mind. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Freud, S. (1953–1974). In J. Strachey, A. Freud, A. Richards, & C. L. Rothgeb (Eds.), The standard edition of the complete works of Sigmund Freud (24 vols.). London: The Hogarth Press and the Institute of Psychoanalysis.
Ginzburg, C. (1983). Kunst und soziales Gedächtnis. Die Warburg-Tradition [Art and social memory: The Warburg tradition]. In C. Ginzburg (Ed.), Spurensicherungen. Über verborgene Geschichte, Kunst und soziales Gedächtnis (pp. 115–172). Berlin: Wagenbach.
Gombrich, E. H. (1981). Aby Warburg. Eine intellektuelle Biographie [Aby Warburg: An intellectual biography]. Frankfurt am Main: Suhrkamp.
Halbwachs, M. (1941). La topographie légendaire des évangiles en Terre Sainte [The legendary topography of the gospels in the Holy Land]. Paris: PUF.
Halbwachs, M. (1985). Das Gedächtnis und seine sozialen Rahmenbedingungen [Les cadres sociaux de la mémoire] (L. Geldsetzer, Trans.). Frankfurt am Main: Suhrkamp. (Original work published 1925)
Jung, C. G. (1970–1971). Collected Works (G. Adler & R. F. C. Hull, Eds.). 20 vols. Bollingen series. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Luckmann, T. (1983). Remarks on personal identity—Inner, social and historical time. In A. Jacobson-Widding (Ed.), Identity: Personal and sociocultural—A symposium (pp. 67–91). Stockholm and Uppsala: Almqvist-Wiksell International.
Mann, T. (1933–1943). Joseph und seine Brüder [Joeseph and his brethren] (4 vols.). Frankfurt am Main (1933–1936) & Stockholm (1943): S. Fischer.
Niethammer, L. (1985). Lebenserfahrung und kollektives Gedächtnis. Die Praxis der “Oral History” [Life experience and collective memory: The practice of “oral history”]. Frankfurt am Main: Suhrkamp.
Nietzsche, F. (1960). Vom Nutzen und Nachteil der Historie für das Leben [Of the advantage and disadvantage of history for life]. In K. Schlechta (Ed.), Werke (pp. 209–285). Munich: C. Hanser. (Original work published 1874)
Plato (1901a). Phaedrus. Platonis (Opera Ed., I. Burnet, Trans.). (St. III, Vol. 2, pp. 227–278). Oxford: Oxford University Press.
Plato (1901b). Letter VII, Platonis (Opera Ed., I. Burnet, Trans.). (St. III, Vol. 5, pp. 323d–351). Oxford: Oxford University Press.
Proust, M. (1982). Remembrance of things past: Vol 1. Swann’s way: Within a budding grove (T. Kilmartin & C. K. Scott-Moncrieff, Trans.). New York: Knopf. (Original work published 1913)
Redfield, R. (1956). Peasant society and culture. Chicago: Chicago University Press.
Vansina, J. (1985). Oral tradition as history. Madison, WI: Wisconsin University Press.
Vosskamp, W. (Ed.). (1993). Klassik im Vergleich. Normativität und Historizität europäischer Klassiken [Classics compared: Normativity and historicity of European classics]. Stuttgart: Metzler.
Warburg, A. (2003). In M. Warnke (Ed.), Der Bilderatlas MNEMOSYNE [Mnemosyne: An illustrated atlas] (2nd ed.). Berlin: Akademie-Verlag. (Original work published 1925)
Yerushalmi, Y. H. (1982). Zakhor: Jewish history and Jewish memory. Seattle, WA: University of Washington Press.

Previous article

[T03.2] Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 1)

Next article

[T03.1] Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa